HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM KHAI THỊ













DẠY VỀ NHÂN QUẢ.MP3           Hòa Thượng Quảng Khâm khai thị .mp3





CẨM NANG TU ĐẠO.MP3           CẨM NANG TU ĐẠO ĐỌC




CẨM NANG TU ĐẠO.PDF           CẨM NANG TU ĐẠO .PDF




/Cam-Nang-Tu-Dao.mp3                        
Tải Về Máy file (zip)  107.2 MB




→ Tải Về Máy .MP3





Hòa Thượng Quảng Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang-Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên tục là Văn-Lai, quê ở Phúc-kiến, Trung-Hoa.

Gia đình Ngài rất nghèo, đến độ anh ruột Ngài không có đủ tiền để cưới vợ. Năm Ngài bốn tuổi, vì không đủ sức nuôi dưỡng Ngài, cha mẹ Ngài phải đem Ngài bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn-giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời sống bằng nghề trồng trọt. Họ thương yêu Ngài như con ruột vậy. Bà Lý là người tin Phật sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem Ngài lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ Ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt.

Năm Ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau dưỡng phụ Ngài cũng nối gót từ trần, khiến Ngài bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất đai ruộng vườn, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy khiến Ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự. Trong đầu Ngài nảy sinh ý niệm thoát trần: Ngài đem hết của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới Chùa Thừa-Thiên ở Phúc-Châu xin xuất gia.

Bấy giờ, phương trượng Chùa Thừa-Thiên là Hòa-Thượng Chuyển-Trần, dạy Ngài quy-y, tu Khổ-hạnh với Thầy Thụy-Phương. Ngài được phân phối cho việc lao tác, trồng rau, nhổ cỏ…. Đây là những việc công quả tập sự dành cho người muốn xuất gia.

Ðến năm 19 tuổi, do nhiều nhân duyên đặc biệt, Ngài đã qua Nam-Dương. Ở đây, vì không có trình độ học vấn nên Ngài phải làm việc lao động chân tay. Một hôm, nhân cùng đồng bạn lên núi đốn củi, Ngài nói với bạn về trực giác linh cảm của mình rằng chiếc xe vận tải chở củi sẽ lật ở dốc núi, nhưng không ai tin. Không lâu, chiếc xe quả nhiên bị lật thật. Ðiều này khiến bạn Ngài ngạc nhiên, bảo rằng: “Có được trực giác như vậy sao anh không chịu tu hành, phát triển tâm linh, sau này độ thế?” Nghe qua, Ngài như chợt tỉnh, liền đáp thuyền về lại Trung-Hoa. Bấy giờ Ngài đã 35 tuổi, sau gần 16 năm sống ở Nam-Dương.

Về lại Chùa Thừa-Thiên, Ngài chính thức xuống tóc, lạy Hòa-Thượng Thụy Phương làm Thầỵ. Pháp-danh của Ngài là Chiếu-Kính, tự Quảng-Khâm. Sau khi xuất gia, Ngài chuyên chú tu Khổ-hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu làm, thường luôn ngồi Thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian Ngài giữ trách nhiệm Hương-đăng (thắp nhang, quét tước điện Phật) và đánh bảng thức chúng mỗi sáng. Nhiều lần Ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc đánh bảng. Ðiều này khiến Ngài vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ ngồi.

Năm 1933, sau sáu năm làm Sa-di tu Khổ-hạnh, bấy giờ Ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ-khưu nơi Hoà-Thượng Diệu-Nghĩa, chùa Từ-Thọ, Phủ-Điền. Thọ Giới rồi, Ngài liền xin phép phương-trượng Chuyển-Trần đi ẩn tu; lúc ấy Ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo, Ngài nhắm núi Thanh-lương, tỉnh Tuyền-châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, Ngài tìm thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu Ðạo. Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng khi gặp hổ, Ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý Ngài, rõ lời người. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy-y; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con… đùa giỡn, gần gũi với Ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân quanh đấy gọi Ngài là Phục Hổ Hòa-Thượng.

Bấy giờ, Hòa-Thượng ở sơn động ngày ngày tọa Thiền, niệm Phật. Chẳng bao lâu lương thực cạn sạch, Ngài bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; chúng lại đem cả hoa quả cây trái lại cúng dường Ngài nữa!

Hòa-Thượng thường hay nhập Ðịnh. Có lần Ngài nhập Ðịnh đến vài tháng, không ăn uống, không động đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Có người gần đấy thấy vậy thì lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên tức tốc cấp báo với Hòa-Thượng Chuyển-Trần để lo việc hỏa táng. May thay, lúc ấy có vị cao-tăng là Ðại-Sư Hoằng-Nhất đang ở chùa gần đấy, nghe được tin trên bèn cùng Hòa-Thượng Chuyển-Trần lên núi xem hư thực. Tới nơi, Ðại-Sư Hoằng-Nhất biết Ngài đang nhập Ðịnh, liền gõ ba tiếng khánh, đánh thức Ngài dậy từ trạng thái Thiền-định. Tin Ngài nhập Ðịnh lan truyền khắp nơi khiến ai ai cũng tán thán.

Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa-Thượng đã ở trên núi Thanh Lương được 13 năm. Bấy giờ Ngài, đã 54 tuổi (1945), trở về Chùa Thừa Thiên. Hai năm sau, 1947, Ngài rời Ðại-lục, đáp thuyền tới Ðài-loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng Pháp của Ngài:

– 1948, Ngài xây một ngôi chùa nhỏ ở Ðài-bắc, tên là Quảng-Minh Tự.

– 1951, xây Quảng-Chiếu Tự.

– 1952, Ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành-Phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, Ngài đặt tên là Nhật-Nguyệt Ðộng và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có nước, song từ khi Ngài vào ở bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy, Ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu Pháp; Ngài liền vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy-y.

– 1955, tín đồ ở Ðài-bắc cúng dường Ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên; Ngài bèn xây Thừa-Thiên Tự ở đó.

– 1963, Ngài hưng kiến Tường-Ðức Tự; xây Quảng-Long Tự ở núi Long Tỉnh.

Ðến năm 1964, Ngài đã ở Ðài-loan được 17 năm. Trong suốt thời gian ấy, Ngài đã nhập định ba lần và mỗi lần lâu hơn cả tháng. Hằng ngày, Ngài chỉ ăn một bửa và chỉ ăn trái cây; Ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi Ngài là Thủy-Quả Hòa-thượng – Ông Thầy Ăn Trái Cây. Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi đêm Ngài đều ngồi tọa Thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc biệt của Ngài.

Năm Ngài 80 tuổi, có lần Ngài biểu thị cho Ðại-chúng biết ý định “Xả Báo” – nhập Ðịnh – của Ngài. Lúc ấy các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin Ngài tiếp tục từ bi trụ thế. Bấy giờ, Ngài vì tùy thuận chúng sanh nên trì hoãn việc nhập Ðịnh, tiếp tục công cuộc độ sinh. Từ ấy Ngài đi Nam-đầu, Ðài-trung, Gia-nghĩa, Hoa-liên, v.v… hoằng Pháp độ chúng.

Ðến năm 84 tuổi, Ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại chùa Thừa-Thiên trên núi Thanh-lương không còn xuống núi nữa. Công cuộc xây chùa vẫn tiếp tục, song do các đại đệ tử của Ngài chủ động: trùng tu Chùa Thừa-Thiên, xây Quảng-Thừa Nham (1974), Diệu-Thông Tự (1982).

Năm Ngài 94 tuổi (1985), Ngài chủ trì Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị Tăng, Ni và cư sĩ, tạo thành một Pháp-Hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài-loan lúc bấy giờ.

Bấy giờ tuy đã gần kề trăm tuổi, Ngài vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc; lời nói của Ngài bình dị, khiêm nhường; bước đi của Ngài vẫn vững chãi, không cần dùng tới gậy chống, không nhờ người đỡ tay. Nếu ai gặp Ngài lúc ấy sẽ thấy thân Ngài vô cùng nhẹ nhàng, linh hoạt; động tác thanh thoát. Ngài vẫn y nhiên ngủ ngồi, không nằm; và vẫn ngồi ngoài vườn lộ thiên tĩnh tọa mỗi đêm. Bấy giờ thức ăn trái cây của Ngài phải được nghiền thành chất lỏng để dễ ăn.

Cuối năm 1985, Ngài trở về Chùa Thừa-Thiên. Ngài thị hiện có bệnh; cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men; cũng không tiếp kiến tín đồ.

Ngày Tết Nguyên-đán năm ấy, 1986, Ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Ngài chỉ bảo việc hỏa táng, phân chia linh cốt tại Thừa-Thiên Tự, Quảng-Thừa Nham, và DiệuThông Tự, đồng thời trả lời mọi nghi vấn của tín chúng.

Sáng ấy, sau giờ thọ trai, Ngài quyết định xuống Diệu-Thông Tự ở Cao Hùng.

Hôm sau, mồng hai Tết, khí lực của Ngài vô cùng suy nhược.

Mồng ba Tết, thể lực của Ngài bình phục. Ngài cùng đại chúng lên điện niệm Phật. Ngài lại nói chuyện một cách thong dong tự tại với các tín đồ đệ tử; tinh thần vô cùng sáng suốt và lạc quan như không có chuyện gì xảy ra.

Sáng mồng bốn Tết, Ngài gọi tất cả đệ tử cùng Ngài ra bên ngoài điện đón nắng. Ngài nói với một đệ tử, Thầy Truyền-Văn, rằng: “Ngươi được rồi đấy; song bọn họ – đại chúng – còn chưa xong đâu!”

Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 2 năm 1986), Ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật.

Vào hai giờ chiều hôm ấy, Ngài bảo đại-chúng: “Vô khứ vô lai, một hữu sự!” (chẳng đến chẳng đi, chẳng việc gì); rồi nhìn đại-chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại chúng thấy Ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay Ngài đã an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi.

Nhìn lại cả đời Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi xuất gia, Ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ-hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất khả tư nghị. Sau khi xuống núi, tới Ðài-loan hoằng dương Phật Pháp, Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm giới, từ hữu tình đến vô tình… Và, nhất là sự viên-tịch vô cùng tự do tự tại của Ngài – một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp, cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt Ðạo của những bậc chân tu, thật hành.

Thầm nguyện Hòa-Thượng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này để không ngừng đưa lớp lớp chúng sanh tới bờ bên kia, đến nơi an ổn, vô úy, vô ưu não!

(trích Cẩm Nang Tu Đạo
Hòa Thượng Quảng Khâm)

————————————————

LỜI BÀN

Cả một đời Ngài chuyên tu khổ hạnh, an bần lạc đạo, ăn những món mà người khó ăn, làm những việc người khó làm với nhiều công hạnh xuất thế bất khả tư nghì. Do trễ nãi việc đánh bảng làm mất thời gian tu hành quý báu của Đại Chúng mà Ngài lập hạnh cả đời ngủ ngồi không nằm thể hiện tâm hổ thẹn – sám hối sâu xa với ý chí kiên định, nói cách khác đó là tâm “tự giác” khó ai sánh bằng. Thống thiết với đại sự sanh tử vô thường, Ngài xả ly ngũ dục thế gian, thiền – tịnh song tu giữa núi rừng hoang vắng u tịch, ăn củ rễ cây và trái rừng cho đỡ dạ mà tiến tu, chẳng màng sanh tử. Với Tâm – Giới – Đức trang nghiêm thoát tục vượt bực nên Ngài độ hóa cả cầm thú, có vượn khỉ dâng trái cây, trăn và cọp dữ đến quy y; lại thường nhập Định nhiều tháng không ăn, không cử động, thậm chí hơi thở cũng không còn, thật là “bất khả tư nghì” nào khác gì công hạnh chư Tổ thời xưa lúc Phật còn tại thế. Khi hạ sơn hoằng dương Phật Pháp, Ngài chỉ ăn một bữa Ngọ (chỉ ăn trái cây); áo mặc thì chỉ một vài bộ thô; ngủ thì ngủ ngồi, an nhiên tọa thiền ngoài thất, ngoài vườn giữa trời hoặc trong rừng; lại thường rộng độ cả hai cõi âm – dương; xiển dương Thiền – Tịnh; trọn đời mật hạnh từ bi – vô ngã hóa độ chúng sanh. Ngài có nếp sống mộc mạc, bình dị, khiêm cung, hòa ái, tuy đã gần trăm tuổi mà đi không dùng gậy, không cần người dìu đỡ, thân thể nhẹ nhàng linh hoạt đến khó ngờ (xem video trên Đạo tràng Tu Phật). Mỗi lời Ngài dạy đều ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu nhưng vô cùng cô đọng, sâu sắc. Cả một đời tu, Ngài là bậc mô phạm thể hiện công đức tu hành xuất thế, khổ hạnh đầu đà giải thoát của Phật gia, thật là tấm gương quý báu để hàng hậu học chúng ta – nhất là người xuất gia – phản tỉnh tự giác, trực tâm tu hành.

Mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!

Diệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_

Cổ Thiên

Khai Thị Niệm Phật Của Từ Giác Đại Sư

* Đại sư nói:

– Người mới học đạo, nhẫn lực chưa thuần, nên phải mượn tịnh duyên để giúp phần tăng tiến. Tại sao thế?

– Bởi ở cõi Ta Bà, Phật Thích Ca đã nhập diệt, đức Di Lặc chưa giáng sanh; miền Cực Lạc thì từ phụ A Di Đà hiện đương thuyết pháp. Với đức Quán Âm, Thế Chí, người cõi Ta Bà luống khát ngưỡng danh lành, nếu về Tịnh Độ thì bậc thượng thiện nhân như hai ngài ấy, đều là bạn tốt.

– Ta Bà, các loài ma nổi dậy, làm não loạn người tu; trái lại nơi cõi Cực Lạc trong ánh đại quang minh, đâu còn ma sự?

– Ta Bà dễ bị tiếng tà quầy loạn, sắc đẹp mê tâm; miền Cực Lạc thì chim nước rừng cây đều tuyên dương diệu pháp, chánh báo thanh tịnh, đâu có nữ nhơn! Thế thì duyên tu hành thuận tiện đầy đủ, không đâu hơn cõi Tây Phương, tiếc cho kẻ nông cạn kém tin, trở lại nghi ngờ hủy báng! Xin đưa ra đây ít điều để luận:

+ Ở cõi này, cảnh nhà thế ồn ào dễ khiến cho người chán, nên có nhiều kẻ mến cảnh chùa vắng lạnh, bỏ tục xuất gia. Nhưng nỗi khổ ở Ta Bà đâu phải chỉ có sự phiền phức của nhà đời, sự vui ở Cực Lạc mầu nhiệm không cùng, đâu phải chỉ như cảnh chùa thanh tịnh? Biết xuất gia là tốt mà không chịu cầu vãng sanh đó là điều lầm thứ nhất.

+ Ở cõi này, người tu hành khó nhọc, trải muôn dặm đường xa đi tìm bậc trí thức để phát minh việc lớn giải quyết sự sống chết luân hồi? Cõi Cực Lạc, đức Di Đà Thế Tôn nghiệp sắc tâm đều thắng, nguyện lực rộng sâu, một khi diễn tiếng viên âm, người nghe đều tỏ ngộ. Nguyện tham phỏng bậc trí thức mà không muốn thấy Phật là điều lầm thứ hai. Người tu ở cõi này thấy chùa lớn chúng đông đều ưa thích muốn ở, những chỗ chúng ít lại không muốn nương theo. Cõi Cực Lạc, hàng Nhất Sanh Bổ Xứ rất nhiều, các bậc người thượng thiện đều hội lại một chỗ. Muốn gần gũi chùa lớn mà không mến hải chúng thanh tịnh ở Tây Phương, là điều lầm thứ ba.

+ Ở cõi này, kẻ thượng thọ không quá trăm tuổi, tính lại lúc thơ ấu dại khờ, khi già cả suy yếu, lúc đau bịnh, khi ngủ nghỉ, bao nhiêu đó đã chiếm hơn phân nửa đời người; phương chi bậc Bồ Tát còn mê khi cách ấm, hàng Thanh Văn còn muội lúc xuất thai, tấc bóng ngàn vàng mười phân hao hết chín, mà tu hành chưa lên ngôi bất thối, thật đáng kinh lòng! Người ở Tây Phương thọ mạng không lường, một khi gởi chất nơi hoa sen thì không còn sự khổ sanh già bịnh chết, tu hành tiếp tục mãi cho đến khi chứng quả Bồ Ðề. Cam chịu luân chuyển ở cảnh Ta Bà ngắn khổ, mà quên miền Cực Lạc trường xuân, là điều lầm thứ tư.

+ Ở cõi này, như bậc đã chứng quả vô sanh, sống trong dục trần mà không mê nhiễm mới có thể vận lòng từ bi, trí phương tiện, cứu độ muôn loài. Còn kẻ trí huệ cạn, mới tương ưng với đôi chút pháp lành, bèn cho mình là bậc cao siêu tự tại, chê bai Tịnh Độ, tham luyến Ta Bà, không biết tự lượng, mong sánh với bậc đại quyền Bồ Tát, để rồi ngày kia phải bị luân hồi đọa lạc, đó là điều lầm thứ năm. Trong kinh nói: “Phải nên phát nguyện cầu sanh về cõi kia”, mà có kẻ chẳng tin lời Phật, khinh rẻ sự cầu sanh, há chẳng phải là mê ư? Than ôi! Người không biết lo xa, ắt có sự buồn gần, một khi mất thân này, muốn kiếp đành ôm hận, chừng ấy hồi sao cho kịp!

Khai Thị Niệm Phật của Hoà Thượng Quảng Khâm

Khai Thị Niệm Phật của Hoà Thượng Quảng Khâm

Niệm Phật, tụng kinh, xem Kinh và nói chuyện là bốn việc mà bạn chắc chắn làm hằng ngày. Tốt nhất là ít nói chuyện. Thời gian tụng Kinh và xem kinh sách không nên nhiều hơn thời gian niệm Phật là tốt nhất. Niệm Phật vẫn là chủ chốt.

Xem kinh sách không cần phải quá nhiều. Phàm gặp việc gì, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật” là được. Ðể tránh chuyện thị phi, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật”.

Bạn hãy yên lặng, lắng lòng mà niệm Phật; niệm tới lúc ngủ thiếp luôn càng tốt. Khi tâm tới chỗ chuyên nhất – chỉ một niệm – thì bạn có thể siêu xuất Tam Giới, thẳng tới Tây Phương. Khi tu hành, bạn cần phải tập: mắt nhìn mà giả lờ như không thấy, tai nghe mà giả đò như không biết; chỉ thành thật niệm Phật.

Không cần phải xem nhiều sách vở, chỉ cần niệm Phật cho nhiều. Khi trí huệ khai mở, tất cả Kinh Tạng tự nhiên sẽ ở tại tâm bạn.

Ði, đứng, nằm, ngồi, đều nên ở trong phạm vi niệm Phật.

Khi định tâm lại niệm, bạn sẽ giác ngộ rằng chúng ta từ sáng tới tối, tâm luôn nhắm mắt ra bên ngoài mà không bao giờ quán xét xem tâm mình có hướng về Phật A-Di-Ðà chăng. Ðừng để cho tâm bạn bị cột vào đám tín đồ, đệ tử, hoặc cảnh giới bên ngoài. Nếu bạn cột vào chúng thì sẽ bị chúng xoay chuyển, lôi đi mất; đáng sợ lắm!

Hiện tại các bạn không đủ chánh niệm, mười phần không được một; do đó thật là nguy hiểm. Khi bạn niệm Phật nhiều thì đó là Thiền sống.

Có kẻ nói là bế quan, song họ đầy dẫy vọng tưởng, đầu não không chút thanh tịnh. Khi bạn ngồi tịnh tọa lâu, thấy mệt thì nên đứng dậy đi rảo.

Khi bạn niệm Phật mà rời được cảnh giới thì đó tức là Thiền. Bạn phải duy trì chánh niệm, bởi vì trong tâm bạn luôn còn rất nhiều chủng tử xấu xa.

Khi niệm Phật mà không có chánh niệm thì lòng bạn luôn nghĩ này nghĩ nọ. Miệng niệm mà tâm hướng ngoại. Nếu bạn thật sự muốn, thì bạn mới làm cho tâm bạn chuyên nhất đặng. Nếu bạn không có lòng muốn tu, thì làm sao niệm Phật (cho thành công)?

Niệm Phật mà rời xa được ngoại cảnh, cùng Phật tương ưng, thì mới biết tâm này và Phật giống nhau.

Việc quan trọng nhất khi niệm Phật là phải nghe tiếng niệm cho rõ ràng.

Niệm Phật tức là vào Trung-Ðạo? không có tốt, không có xấu.

Tuy niệm Phật cũng là một chuyện huyễn hóa, song nó thuộc về chánh niệm. Do đó, mình dùng huyễn (niệm Phật) để diệt huyễn (vọng tưởng).

Hỏi: Niệm làm sao mới chuyên nhất?

Ðáp: Ðây cũng là chấp trước. Chỉ cần bạn đừng để ý gì tới vọng tưởng là được (thì tâm sẽ chuyên nhất). Bởi vì mình tự nhủ lòng rằng: “Ðừng khởi vọng tưởng”; song vọng tưởng vẫn cứ tự dấy khởi. Do đó, hễ để ý tới vọng tưởng thì mình lại sanh thêm một vọng niệm; càng để ý tới nó thì nó càng tăng!

Khi vọng niệm nổi lên, bạn đừng sợ. Hãy mặc kệ, đừng chú ý tới nó là xong. Cứ một lòng niệm “A-Di-Ðà Phật”. Vọng niệm vốn không có thực thể, từ từ nó sẽ tan biến mất.

Hễ nhớ tới niệm Phật thì niệm ngay; không nên chấp trước rằng tôi phải làm thế này thế kia. Niệm Phật là tuy niệm mà không (chấp trước vào) niệm.

Niệm Phật mà còn thấy rằng mình đang niệm hay không niệm, thì đều là chấp trước.

Niệm Phật thì phải tùy duyên. Phàm làm chuyện gì, ở đâu, lúc nào cũng nên tùy hoàn cảnh mà niệm Phật. Không phải nói rằng: “Tôi cần niệm bao nhiêu, bao nhiêu hồng danh”, hoặc “Tôi đang niệm Phật, không thể làm việc được”, hoặc “Tôi đang bận rộn, chưa đi niệm Phật được… “

Mỗi tâm niệm, mỗi ý nghĩ, bạn chớ xa rời cảnh giới Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi – nhất cử nhất động, làm gì bạn cũng cứ niệm Phật. Khóc cũng niệm Phật; cất chân một bước cũng niệm Phật. Sức mạnh của việc niệm Phật vĩ đại vô song, có thể khiến bạn đắc Niệm Phật Tam-Muội – một thứ Ðịnh không phải tầm thường.

Khi sinh ra, mình đã mang theo trong người đầy dẫy nghiệp chướng. Do đó, chớ tạo thêm nghiệp mới để chết rồi lại mang đi; chẳng lợi ích chút nào cả!

Hỏi: Niệm đức Phật hay Bồ-tát nào thì tốt nhất?

Ðáp: Tất cả mọi đức Phật và Bồ-tát đều tốt như nhau. Không phải niệm vị này thì tốt hơn niệm vị kia: đó đều là do bạn phân biệt, so sánh mà ra. Chư Phật, Bồ-tát cũng không nhất định cần bạn niệm tên các Ngài nữa.

Niệm Phật tới chỗ tâm định, thì tức là Thiền. Nên nói:

“Vừa Thiền, vừa Tịnh-Ðộ,

Mười người tu, mười người thành.

Có Thiền, không có Tịnh-Ðộ,

Mười người tu, chín kẻ lạc đường!”

Vừa tịnh tọa vừa niệm Phật, thì tương đối không đi lầm đường hoặc xảy ra nguy hại.

Nếu tâm bạn còn tham muốn, ham thích, vương vấn chuyện gì, thì khi lâm chung việc đó sẽ hiện ra. Bấy giờ, nếu bạn thấy cảnh đó rồi nảy lòng yêu thích, sanh tâm truy đuổi nó, thì kết quả là bạn sẽ lọt thẳng vào vòng luân hồi!

Nếu bạn biết dọn lòng trong sạch niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có hoa sen, Phật, Bồ-tát và cảnh giới thù thắng hiện ra. Do đó, lúc còn sống bạn cần phải tu để trừ cho sạch hết những ham muốn trần tục.

KHAI THỊ LÚC PHẬT THẤT

Mục-đích đả Phật-thất là để độ chúng sanh vãng sinh Thế-giới Cực-Lạc.

Cõi Ta-Bà thì có sinh có diệt; cõi Tây Phương thì bất sinh bất diệt. Mình đi xuất ngoại thì cần tiền mua vé máy bay, chớ tới Tây Phương thì chỉ cần niệm Phật đến độ chuyên nhất, không còn sắc tướng (chấp trước). Ðó chính là “bất sinh bất diệt” vậy. Phải niệm Phật thì mới có chỗ để mình ký thác thân mạng này.

Niệm Phật thì phải niệm niệm không xa rời Phật. Niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh, mỗi chữ mỗi chữ đều phải rõ. Tâm nhớ tưởng, tai lắng nghe, miệng thầm niệm – cứ thế mà nhiếp tâm chuyên chú nơi Phật hiệu. Hãy buông bỏ mọi chuyện bên ngoài; cứ nương theo tiếng niệm thì tâm sẽ tập trung, chuyên nhất. Bất kể là “người niệm” hay “tiếng niệm”, bất kể là “tôi niệm” hay “bạn niệm”; đại-chúng ai cũng nương theo tiếng niệm Phật thì tâm sẽ chuyên nhất. Tây Phương Cực-Lạc lại cũng dựa theo tiếng niệm Phật này.

Khi đả Phật-thất, bạn chớ để cho ý niệm trần tục lôi kéo tâm mình. Nếu không chuyên tâm, thật uổng cơ hội quý báu này.

Do vậy, hãy một lòng một dạ niệm Phật, chuyên chú vào tiếng niệm.

P/s : Người niệm Phật nên ăn chay trường. Nếu như chưa thể thì nên giữ Lục Trai hoặc Thập Trai (Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 là Lục Trai. Thêm vào ngày mồng Một, 18, 24, 28 thì thành Thập Trai. Gặp tháng thiếu thì ăn lên trước đó một ngày. Lại còn tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín là ba tháng chay, nên ăn chay trường, làm các công đức). Từ giảm dần đến vĩnh viễn dứt ăn mặn thì mới hợp lý.

Tuy chưa dứt được ăn mặn, hãy nên mua thịt làm sẵn, đừng sát sanh trong nhà. Do trong nhà thường nguyện cát tường (tốt lành, may mắn), nếu hằng ngày sát sanh thì nhà ấy liền trở thành nơi giết chóc. Nơi giết chóc chính là chỗ oán quỷ tụ hội, chẳng tốt lành, [điều này] quan trọng lắm! Do vậy, phải kiêng sát sanh trong nhà. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng, Một Lá Thư Gởi Khắp).

Tịnh Độ Nghi Biện – Đại Sư Liên Trì

Khách hỏi: Pháp Môn Tịnh Độ chỉ chuyên sự tướng, người Trí Tuệ y Thiền Tông Tu tập một niệm liễu ngộ, liền siêu Thập Địa, sao lại riêng tán dương Tịnh Độ? Há đó chẳng phải là trước tướng, không hiểu rõ lý tánh sao?

Liên Trì Đại Sư đáp: Quy nguyên vốn không hai, phương tiện có nhiều cửa. Hiểu được ý này thì Thiền Tông và Tịnh Độ Tông tuy khác nẻo mà đồng quy. Nay ông đã có lòng nghi, tôi sẽ vì ông giải thích. Pháp Môn Tịnh Độ từ xưa đến nay, Thánh Hiền nối nhau xiển dương không phải một.

Ngài Trung Phong Đại Sư dạy: Thiền tức là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là Thiền. Tuy nhiên, khi tu tập điều thiết yếu, y một môn thâm nhập. Lời này dù ngàn đời vẫn không thay đổi.

Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát khi tu nhân, chứng Niệm Phật Tam Muội dạy rằng: Dùng tâm Niệm Phật mà chứng vô sanh.

Phổ Hiền Bồ Tát nhập Hoa Nghiêm bất khả tư nghì cảnh giới nói: Nguyện con lâm chung, Vãng Sanh An Dưỡng. Hai vị Đại Sĩ, một làm thị giả Đức Thích Ca ở cõi Ta Bà, một làm thị giả đấng từ phụ cõi Liên Bang. Mỗi vị các cứ mỗi phương, nhưng đồng giáo hoá chúng sanh quy về An Dưỡng.

Mỗi người lập một chí mà vẫn hằng dung thông, chưa từng chướng ngại, đó là tùy căn cơ sở thích tu tập, há là thiên chấp hay sao?

Ông nói: Niệm Phật là chấp tướng.

Vậy lẽ nào Phật Tổ các Ngài không biết tịnh tâm tức là Tịnh Độ hay sao lại nói Thất Bảo Thế Giới làm gì?

Cũng như nói: Thiện tâm tức là Thiên Đường sao còn Trời Dạ Ma, Đao Lợi.

Ác tâm tức Địa Ngục, sao còn đao kiếm, chảo dầu sôi?

Tâm ngu si tức Súc Sanh, sao còn thêm đeo lông đội sừng?

Nay ông ưa nói lý tánh, chán ghét sự tướng, chẳng qua là muốn cho mọi người biết, ta đây là hạng thượng căn thượng trí và sợ người ta nói mình không thông lý tánh vậy.

Than ôi, nếu thật thông lý tánh, phải biết ngoài sự không có lý, ngoài tướng chẳng có tánh.

Tánh tướng, sự lý hổ tương cho nhau, cần chi bỏ sự cầu lý, bỏ tướng tìm tánh?

Huống chi, Tịnh Độ phân làm bốn tầng, nói như ông thì chỉ có Thường Tịch Quang mà không có Thật Báo Trang Nghiêm, Phương Tiện Hữu Dư và Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ sao?

Nếu khăng khăng bảo, không có tướng mới cao.

Tư chất hơi có chút lanh lợi, xem hết hai tạng Kinh Luận, nhớ hết một ngàn bảy trăm công án, những việc ấy có chi đáng gọi là khó?

Nếu ông quả thật đã thấu triệt tự tâm, nơi nơi đều là Tịnh Độ.

Vậy xin hỏi ông có thể ở nơi nhà xí, dơ dáy hỗn tạp tự mình làm chủ không?

Lại có thể ở chuồng trâu, ngựa và chó, cùng máng ăn chăng?

Lại có thể ở gò mã, cùng thi hài rã nát hôi thối ngủ không?

Lại có thể nhận cơm bú mớn từ những người bị bệnh Già Ma La có lẽ bệnh cùi đầy máu mủ, nước tiểu v.v… ăn được không?

Lại có thể ở nơi ấy, lắm tháng nhiều năm không?

Nếu có thể ở những nơi ấy, tâm thật an nhiên tự tại, không chút phiền lòng thì ngươi có thể nói non cao, vực thẳm, gò mã, nhà xí, cũng như đất bằng chỗ nào cũng là Tây Phương. Bằng không như vậy, nghĩa là đối cảnh bên ngoài phải cố nhẫn, trong tâm thì khởi lòng oán ghét và không vừa ý.

Nơi cảnh tịnh – uế, sanh tâm phân biệt, thương ghét còn để trong lòng mà mở miệng luận Thánh cảnh, phỉ báng cho rằng không có Tịnh Độ, khinh thường Vãng Sanh, dối mình gạt người, cam lòng mê muội, đáng thương, đáng thương.

Nếu như ông thật có đại lực, đại thệ nguyện, nguyện vào trong sanh tử, lên xuống sáu đường, hành Bồ Tát hạnh, tâm không chút sợ hãi, thì Cõi Tịnh Độ có Vãng Sanh hay không cũng chẳng ngại.

Nếu sợ sống trong cõi này, trong cảnh nóng lạnh, không thể tự chủ, lại sợ Chư Phật ra đời không gặp và đường Tu khó tiến. Lại ngại đạo lực chưa kiên cố, không thể ở trong Tam Giới, tự tại hoá độ chúng sanh, mãn báo thân này chưa thể vĩnh viễn thoát ly sanh tử, phải chịu vào ra thai bào, lên xuống sáu nẻo.

Khi xả thân thọ thân, đường trước mờ mịt, chẳng biết về đâu, mà muốn phế bỏ Tịnh Độ, không cầu Vãng Sanh thì chỉ mất đi lợi ích lớn vậy.

Pháp Môn Tịnh Độ tợ như cạn mà thật rất sâu, tợ gần mà xa, tợ như khó mà thật rất dễ, tợ dễ mà thật khó.

Ngày nào đó, ngươi chứng Niệm Phật Tam Muội sẽ tự biết. Ngươi nay Tham Thiền hay Niệm Phật tùy ý chọn lấy một môn, Tu cho đến khi thâm nhập chẳng nên nhận sắc là vàng, được ít cho là đủ, nhìn Trời qua miệng giếng, tùy ý vọng đàm, phỉ báng Tịnh Độ.

Như đứa con ngu chửi mắng, phỉ báng Cha Mẹ, Cha Mẹ thương xót tuy không trách mắng nhưng thiên lý quyết chẳng dung tha.

Vương Pháp há không trị phạt sao?

Ngươi nay vọng bàn luống dối, quả báo kia cũng lại như vậy, lẽ nào không sợ sao?

Ta thật xót thương lắm lắm vậy.




Khai Thị Niệm Phật Của Hữu Nghiêm Đại Sư

Khai Thị Niệm Phật Của Hữu Nghiêm Đại Sư

*Đại sư nói:

Đức Thế Tôn thương xót, dùng nhiều phương tiện để tiếp độ loài hữu tình. Cho nên người tu hành được vãng sanh cũng có nhiều cách: hoặc nhờ thiền định, tán thiện hoặc do Phật lực, Pháp lực, hoặc có người chỉ tu phước rồi mượn nguyện lực để hồi hướng, hoặc có kẻ lúc lâm chung quá sợ hãi niệm Phật mà được cứu độ. Những loại như thế số có đến ngàn muôn, chỉ nương nhờ một phương pháp, tất được vãng sanh. Về định thiện như kẻ tu môn diệu quán, tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Về Tán Thiện như trong kinh Vô Lượng Thọ nói: “Dùng mười niệm, niệm Phật cũng được vãng sanh”.

Về Phật Lực là do đại bi nguyện lực của đức A Di Đà nhiếp thọ, những chúng sanh niệm Phật nương nhờ đây mà được vãng sanh. Ví như kẻ dung phu nương theo vua Chuyển Luân, trong một ngày đêm có thể đi khắp bốn châu thiên hạ, đó không phải là do sức mình, chính nhờ năng lực của Luân Vương.

Về pháp lực là như Phật bảo Liên Hoa Minh Vương Bồ Tát dùng thần chú quán đảnh gia trì trong đất cát rải nơi thây hoặc mộ phần người chết, khiến cho vong giả tuy bị đọa nơi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, nhưng nương nhờ chân ngôn này được về Cực Lạc.

Về sự tu phước hồi hướng như người giữ tâm từ bi không giết hại, thọ trì các giới, đọc tụng Mật chú, các kinh điển Ðại Thừa, cùng tu những phước lành, hồi hướng trang nghiêm thành ra nhân Tịnh Độ.

Về việc khi lâm chung sợ hãi cầu cứu, là người lúc sắp chết, tướng hỏa xa hiện, xưng hiệu Phật, lửa dữ hóa ra thành gió mát, như trường hợp của Hùng Tuấn, Trương Thiện Hòa được vãng sanh vậy.

Khai Thị Niệm Phật Của Thiên Như Đại Sư

Khai Thị Niệm Phật Của Thiên Như Đại Sư

Có kẻ hỏi: Phương tu viên quán, pháp niệm duy tâm, dường như là hành môn của bậc thượng căn. Còn mười nguyện trong kinh Hoa Nghiêm, mười tâm trong kinh Bảo Tích, cũng là công dụng của bậc đại trí. Trên đường tu, nếu căn cơ cùng giáo pháp không hợp, e cho công hạnh khó thành. Nay tôi xét lại căn tánh mình, chỉ nên chuyên trì danh hiệu, thêm lễ Phật sám hối mà thôi, chẳng hay tôn ý thế nào?

Đại sư đáp: Tốt lắm! Người biết tự lượng đó! Lời ngươi nói hợp với thuyết Chuyên Tu Vô Gián của ngài Thiện Đạo. Vô Gián Tu là thân chuyên lễ Phật A Di Đà không lễ tạp, miệng chuyên xưng hiệu A Di Đà không xưng tạp, ý chuyên tưởng Phật A Di Đà không tưởng tạp.

Niệm Phật, hoặc duyên tưởng 32 tướng, buộc tâm cho định khi mắt mở nhắm đều thấy Phật. Hoặc có kẻ chuyên xưng danh hiệu, giữ không tán loạn, trong hiện đời cũng được thấy. Trong hai điều trên đây, muốn được thấy Phật, phần nhiều pháp xưng danh hiệu là hơn. Pháp xưng danh, cần phải buộc lòng đừng cho tán loạn, mỗi niệm nối nhau duyên theo hiệu Phật, từng câu, từng chữ rõ ràng. Lại xưng danh hiệu Phật, chớ quản nhiều ít, một tâm một ý, niệm niệm nối nhau. Như thế mới diệt được tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp, nếu chẳng vậy, rất khó tiêu tội.

Có kẻ hỏi: Một đời tàn ác, khi lâm chung dùng mười niệm cũng được vãng sanh. Vậy thì bây giờ tôi buông theo duyên đời đợi lúc sắp chết sẽ niệm Phật, có được chăng?

Đại sư đáp: Khổ thay! Lời này đã hại chính mình, lại hại cho hàng tăng, tục, nam, nữ trong đời nữa! Phải biết kẻ phàm phu nghịch ác khi lâm chung niệm Phật được là do kiếp trước có căn lành, khiến cho gặp bậc thiện tri thức chỉ bảo mà được sự may mắn trong muôn một ấy. Luận Quần Nghi nói:

“Có mười hạng khi lâm chung không niệm Phật được:

1) Khó gặp bạn lành, nên không người khuyên niệm.

2) Bịnh khổ buộc thân, không rỗi rảnh để niệm Phật.

3) Trúng phong cứng họng, nói không ra tiếng.

4) Cuồng loạn mất sự sáng suốt.

5)Thình lình gặp tai nạn nước lửa

 6) Thoạt bị hùm sói ăn thịt.

7) Bị bạn ác phá hoại lòng tin.

8) Hôn mê mà chết.

9)Thoạt chết giữa quân trận.

10) Từ nơi chỗ cao té xuống”.

Những việc trên đây ở trong đời thường có, đó là do túc nghiệp hoặc hiện nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên xảy ra, không kịp trốn tránh. Khi gặp một việc không may, bất cập, trong mười việc trên đây, thì làm sao niệm Phật được? Giả sử không bị những ác duyên như trên, thọ bịnh sơ sài mà qua đời, e cho lâm chung, khi thân tứ đại sắp ly tán, bị sự đau đớn dường như dao cắt, như con cua bị rớt vào nước sôi trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoàng ấy, đâu có rỗi rảnh để niệm Phật?

Giả sử không bị bịnh mạng chung, lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham sống sợ chết, tấm lòng rối loạn không yên. Thêm vào đó, việc nhà chưa phân minh, chuyện sau chưa sắp đặt, vợ con khóc lóc kêu gọi, trăm mối lo sợ, thương sầu, như thế làm sao niệm Phật được?

Giả sử lúc chưa chết, thì lại bịnh khổ, đau đớn rên la, tìm thuốc tìm thầy, lo việc khẩn cầu cúng tế, tạp niệm rối ren, vị tất đã niệm Phật được?

Giả sử trước khi chưa bịnh, thì lại bi sự già khổ, suy lờ, lụm khụm, buồn rầu, ảo não, e cho lo những việc cái thân già yếu chưa xong, đâu rỗi để niệm Phật.

Giả sử trước khi chưa già, còn đang trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa dứt, việc thế tục còn buộc ràng, rong ruổi đông tây, suy thế này tính thế khác, nghiệp thức mơ màng, cũng không niệm Phật được!

Giả sử kẻ được an nhàn thong thả, có chí tu hành, nhưng nếu không nhìn thấu cảnh đời là giả mộng, thân tuy được yên, tâm còn bấn loạn, không thể buông bỏ muôn duyên, khi gặp việc đến, không thể tự chủ, theo cảnh mà điên đảo, cũng không niệm Phật được! Ngươi thử xét lại, đừng nói già bịnh, trong lúc còn trẻ trung nhàn nhã, nếu có một việc đeo đẳng nơi lòng, còn không niệm Phật được thay, huống chi là đợi đến lâm chung? Vậy muốn cho khi sắp chết được chánh niệm vãng sanh, thì ngay bây giờ phải xét rõ việc đời là huyễn mộng, tùy duyên an phận qua ngày, không còn tham luyến, được rỗi rảnh lúc nào thì niệm Phật lúc ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thời giờ. Như thế thì tư lương ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không điều chi chướng ngại.

Khai Thị Niệm Phật Của Diệu Không Đại Sư

Khai Thị Niệm Phật Của Diệu Không Đại Sư

Đại Sư nói:

Phép quán không dễ thành tựu, giới luật cũng chưa dễ giữ tròn, tu phước chẳng phải hôm sớm có thể thành công, sự diệu ngộ chẳng phải kẻ độn căn có thể làm được. Còn đại nguyện bền chắc lại càng ít có người! Nếu không do nơi chỗ chân thật trì danh tìm nẻo thoát ly, tất phải chìm trong biển khổ, hằng chịu luân hồi, ngàn Phật dù từ bi cũng khó cứu độ! Huống chi, phép trì danh nhiếp cả ba căn, không có phương tiện nào hay hơn đây nữa!

Người niệm Phật thì không được nói chuyện tạp hoặc nghĩ ngợi bông lông. Nếu lỡ có phạm, phải suy xét: ta là người niệm Phật, không nên như thế, rồi niệm Phật vài tiếng để tự cảnh tỉnh mà đánh tan điều ấy.

Phép “tùy thuận trì danh” là khi hôn trầm thì đi kinh hành, lúc tán loạn thì trở lại ngồi, hoặc đứng, hoặc nằm, đều tùy tiện mà trì niệm, làm sao cho câu niệm Phật đừng xa lìa. Đây là yếu thuật để hàng phục tâm ma.

Khi gặp cảnh thuận, nghịch, khổ, vui, thị, phi, đắc, thất, dơ, sạch, tất cả trường hợp, cần phải giữ một câu niệm Phật cho chắc. Nếu không như thế, tất bị cảnh duyên, hiệu Phật liền gián đoạn, há chẳng phải đáng tiếc lắm ư?

Khi đối trước tượng Phật, phải xem tượng ấy cũng như Phật thiệt, mắt nhìn tâm niệm, cung kính chí thành. Lúc không ở trước tượng cũng nên thành kính như lúc đối trước Phật tượng. Niệm Phật như thế rất dễ cảm thông, nghiệp ác cũng mau tiêu diệt.

Tất cả người khổ trong đời, vì thân tâm không được rỗi rảnh, nên khó tu hành. Nay ta có phần an nhàn, lại được nghe pháp môn Niệm Phật, vậy phải cố gắng nhiếp tâm, mới không uổng ngàn vàng tấc bóng! Nếu tu hành lôi thôi tất khó có kết quả, như thế là phụ rẫy bốn ân, luống qua ngày tháng, một mai vô thường chợt đến, lấy gì mà chống đối ư?

Người tu nếu vị quả khổ, tất đời trước hoặc đời nay đã gây nhân xấu. Cho nên chịu một phần khổ tức là trả một phần ác của mình. Vậy không nên oán trách trời người sao bất công, buồn thời vận sao điên đảo, mà chỉ hổ thẹn mình không sớm tỉnh ngộ tu hành thôi. Mỗi khi nghĩ đến điều ấy, vừa kinh sợ cho ác báo, vừa thương cảm cho phận mình, mỗi câu niệm Phật đều từ nơi gan tủy phát ra, như thế mới là chơn cảnh niệm Phật.

Trước cảnh ngang trái khổ đau mà không bi thương thì chẳng phải nhân tình, song nếu chỉ luống bi thương, há lại là người rõ thông Phật tánh? Cho nên đã bi thương thì phải tìm phương thoát khổ, nghĩ chước cứu độ mình và tất cả chúng sanh, như thế mới không đến nỗi vô ích. Nên biết sở dĩ Phật được gọi là đấng đại bi vì Ngài có đủ hùng lực, trí huệ, cứu chúng sanh đau khổ. Ta dùng bi tâm mà niệm Phật, cầu lòng bi của Phật cứu khổ cho ta, sự trì niệm như thế khẩn thiết biết dường bao!

Khi niệm Phật đã thuần thục, thì trong sáu trần chỉ có thinh trần, năng dụng của sáu căn đều gởi nơi nhĩ căn, không còn biết thân mình đang vi nhiễu, lưỡi mình đang uốn động, ý có phân biệt hay không, mũi thở ra hay vào, mắt mình nhắm hay mở. Khi ấy sự viên thông của đức Quán Âm, Thế Chí chính là một, căn tức là trần, trần tức là căn, căn trần tức là thức, mười tám giới dung hợp thành một giới. Khi làm xong một việc, vừa nói xong một lời, chưa khởi tâm niệm Phật, mà một câu hồng danh cuồn cuộn tuôn ra, đó là triệu chứng tam muội dễ thành tựu vậy.

Tu tịnh nghiệp, cảnh cô tịch chừng nào hay chừng nấy, tiếng niệm cao thấp mau chậm tùy nghi, làm sao cho hợp thành một phiến. Nên biết khi ấy thân tuy đơn chiếc mà tâm chẳng lẻ loi, vì tâm của chư Phật cùng đức Di Đà chưa từng tạm rời ta, ta khởi niệm thì Phật biết, mở miệng thì Phật nghe, lo gì sự cô tịch?

Bịnh là cái bước đến sự chết, chết là cửa ải đưa đến cảnh tịnh uế thánh phàm. Trong khi bịnh, phải tưởng là mình sắp chết, chuyên niệm hiệu Phật, quyết đợi lúc mạng chung, như thế sẽ có quang minh tiếp dẫn mà toại bổn nguyện vãng sanh của mình. Nếu trong lúc ấy tạm đình câu niệm Phật, thì tâm luyến ái, buồn rầu, sợ hãi, tất cả tạp niệm đều hiện ra, như thế làm sao vượt qua nẻo sanh tử? Thế nên lúc bịnh nguy phải ghi nhớ bốn chữ A Di Đà Phật nơi tâm chớ quên, và những kẻ xung quanh cũng phải niệm bốn chữ ấy để thường thường nhắc nhở người bịnh. Nên biết trăm kiếp ngàn đời, siêu hay đọa, toàn do ở một niệm trong khi ấy. Tại sao thế? Vì sáu nẻo luân hồi đều do một niệm làm chủ. Nếu một niệm chuyên chú nơi Phật, thì hình tuy hoại mà thần không hoại, liền nương theo đó mà vãng sanh. Hỡi người tu tịnh nghiệp! Nên nhớ bốn chữ A Di Đà Phật nơi lòng đừng quên!

Trích: Quê Hương Cực Lạc
Việt dịch: HT Thích Thiền Tâm

Khai Thị Niệm Phật Của Ngộ Khai Đại Sư

Khai Thị Niệm Phật Của Ngộ Khai Đại Sư

Đại Sư nói: Mở mắt niệm Phật, tâm dễ tán động, nên nhắm mắt mà niệm. Trước khi niệm phải ngồi yên giây phút, buông bỏ tất cả, để lòng rỗng không, rồi từ từ tuyên hiệu Phật, vừa niệm vừa nghe, vừa nghe vừa niệm, mật niệm nối nhau, hành trì lâu tâm phát ra, mỗi câu tha thiết nhớ mong Tịnh Độ. Có phương pháp hệ niệm là khi không niệm Phật, đem tâm niệm mình buộc để trên thân đức A Di Đà Phật. Làm như thế, tâm được thanh tịnh, không lay động, chính là chỗ dụng công đắc lực.

Hỏi: Tạp niệm từ đâu sanh?

Đáp: Tâm ta chỉ có một niệm, niệm Phật tức là nó mà tạp niệm cũng là nó. Chỉ nhân ta niệm Phật chưa tinh chuyên, nên niệm trần còn vơ vẩn thế thôi.

Hỏi: Làm sao trừ được tạp niệm kia?

Đáp: Không cần phải trừ, chỉ đem tâm niệm hoàn toàn để trên hiệu Phật, tạp niệm liền mất.

Hỏi: Nhưng rủi tinh lực yếu kém, suy mỏi, không thể khiến cho nó tiêu mất, mới làm sao?

Đáp: Người đạo đức chưa thuần, nên tán loạn nhiều, phải cố thâu nhiếp sáu căn lần lần sẽ được thanh tịnh. Nếu chưa làm được như thế thì mở mắt nhìn chăm chú tượng Phật mà niệm, tạp niệm sẽ tiêu.

Hỏi: Cách ấy cũng hay, nhưng sợ e lần hồi mỏi mệt, tạp niệm lại nổi lên làm sao?

Đáp: Trong tâm mờ tối, nên bị ngoại cảnh kéo lôi, niệm Phật không đắc lực, thậm chí vọng niệm dày đặc không tan. Nhưng đừng vội vàng nóng nảy, phải lóng định tâm tư, niệm chậm rãi, hiệu Phật ra từ nơi tâm, phát thành tiếng nơi miệng, rồi lại vào nơi tai; tâm nghĩ, miệng niệm, tai nghe, cứ tuần hoàn như thế, tạp niệm sẽ dứt.

Hỏi: Phương pháp này rất hay, chỉ e người căn tánh quá tối, không làm được lại phải thế nào?

Đáp: Nên đem sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật mà niệm. Khi niệm nghi nhớ rành rẽ tiếng thứ nhất là Nam, tiếng thứ nhì là Mô, như thế cứ đủ sáu chữ, liên hoàn không dứt, thì vọng niệm không còn chỗ xuất sanh.

Khai Thị Niệm Phật Của Diệu Hiệp Đại Sư

Khai Thị Niệm Phật Của Diệu Hiệp Đại Sư

Đại sư dạy: Hành giả phát tâm niệm Phật, trước khi vào đạo tràng phải xét nghĩ ta với chúng sanh thường ở trong biển khổ sanh tử, nếu không độ cho tất cả đều được thoát ly, sao gọi là chánh hạnh? Nhân đó, xem người oán kẻ thân đều bình đẳng, khởi lòng đại bi, như thế quyết không bị tệ ma, ác đảng làm cho thối chuyển. Sau khi đã lập đại tâm, nên nghiên cứu những chánh hạnh niệm Phật của người xưa, lập đạo tràng đúng pháp, khiến cho hết sức trang nghiêm thanh tịnh. Kế đó, phân ngày đêm sáu thời, đem tâm chí thành gieo mình quy mạng ngôi Tam bảo, tỏ bày hết tội lỗi, cầu xin sám hối. Lại quỳ trước Phật, tay cầm hương hoa cúng dường, vận tâm quán tưởng khắp pháp giới, xét mình cùng tất cả chúng sanh từ trước đến nay ở trong vòng mê khổ, rơi lệ cảm thương, cầu Phật gia bị, nguyện độ muôn loài. Như thế, dùng hết sức mình kham khổ tu hành, nếu nghiệp chướng sâu, chưa được cảm cách, phải lấy cái chết làm kỳ hạn, không được giây phút nào nghĩ đến sự vui ngũ dục của thế gian. Như kẻ căn cơ non kém, không làm được thắng hạnh trên đây thì cũng ở trong tịnh thất, giữ cho thân tâm nghiêm sạch, tùy ý tu hành. Hoặc định thời lễ Phật sám hối, nguyện tinh tấn không thối chuyển, hoặc chuyên niệm hoặc kiêm trì chú, tụng kinh. Nếu được thấy tướng hảo, thì biết mình được diệt tội, có duyên lành.

Hỏi: Dụng tâm thế nào mà được không tán loạn?

Đáp: Nên vận dụng thân miệng mà niệm, không kể đến tánh hay định, chỉ làm sao cho câu Phật không hở dứt, tự sẽ được nhất tâm, hoặc cũng có thể gọi chính đó là “nhất tâm”. Nhưng phải niệm mãi không thôi, trạng như mẹ lạc con thơ, rồng mất trái châu bổn mạng, thì không còn lo chi tán loạn, không cầu nhất tâm mà tự được nhất tâm. Chẳng nên cưỡng ép cho tâm quy nhất, vì dù cưỡng ép cũng không thể được, thật ra chỉ do người tu siêng săng hay biếng trễ mà thôi! Nghĩ thương cho người đời nay, phần nhiều tu hành mà không hiệu nghiệm, ấy cũng bởi lòng tin cạn cợt, nhân hạnh không chơn. Lắm kẻ chưa từng lập hạnh, đã muốn cho người biết trước, trong thì tự phụ, ngoài lại khoe khoang, tỏ ý có chỗ sở đắc để được moi người cung kính. Thậm chí có kẻ nói dối là mình trông thấy tịnh cảnh, hoặc thấy được cảnh giới nhỏ, hay những tướng tốt trong giấc chiêm bao. Thật ra chính họ cũng không phân biệt cảnh đó là chơn hay vọng, nhưng cũng cứ khoe khoang bừa ra. Những kẻ tâm hạnh kém ấy, tất là bị ma làm mê hoặc, nguyện hạnh lần lần lui sụt, trôi theo dòng sanh tử luân hồi. Như thế, há chẳng nên dè dặt ư?

Người tu hành, đối với một tội dù nhỏ, cũng phải đem lòng kiêng sợ, sự hiểu nên theo hàng Ðại thừa, việc làm phải bắt chước kẻ sơ học.

Người tu hành nếu bị túc nghiệp ngăn che, khiến cho nghiệp hạnh lui kém, phải nhất tâm trì tụng chú Vãng Sanh. Chú này gọi là môn đà la ni nhổ trừ tất cả cội gốc nghiệp chướng, tụng một biến, tiêu diệt hết tội ngũ nghịch thập ác trong thân, tụng mười muôn biến, được không quên mất Bồ Ðề tâm, tụng hai mươi muôn biến, liền cảm sanh mầm mộng Bồ Ðề, tụng ba mươi muôn biến, Phật A Di Đà thường trụ trên đảnh, quyết định sanh về Tịnh Độ.

Khai Thị Niệm Phật Của Không Cốc Đại Sư

Khai Thị Niệm Phật Của Không Cốc Đại Sư

Đại Sư nói: Một môn Niệm Phật là đường lối tu hành thẳng tắt. Hành giả phải xét rõ thân này giả dối, việc thế như chiêm bao, duy cõi Tịnh là đáng nương về, câu niệm Phật là có thể nhờ cậy. Rồi tùy phận mà niệm hoặc mau hoặc chậm, hoặc tiếng thấp, tiếng cao, đều không câu ngại. Chỉ nên để cho thân tâm nhàn đạm, thầm nhớ chẳng quên, khi huỡn, gấp, động, tịnh, vẫn một niệm không khác. Niệm như thế, ngày kia xúc cảnh chạm duyên, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Chừng ấy mới biết cõi Tịch Quang Tịnh Độ không rời nơi đây, Phật A Di Đà chẳng ngoài tâm mình. Nếu lập tâm muốn cầu tỏ ngộ thì trở lại thành chướng ngại, nên chỉ lấy lòng tin làm căn bản, chẳng tùy theo tạp niệm mà thôi. Hành trì như thế, dù không tỏ ngộ, khi chết cũng được sanh về Tây Phương, theo giai cấp mà tiến tu, không còn lo thối chuyển.

Kinh Đại Tập nói: “Niệm Phật lớn tiếng có mười công đức: 

1) Đánh tan hôn trầm mê ngủ.
2) Thiên ma kinh sợ.
3) Tiếng vang khắp mười phương.
4) Ba đường ác được dứt khổ.
5) Tiếng bên ngoài không xâm nhập.
6) Niệm tâm không tán loạn.
7) Mạnh mẽ tinh tấn.
8) Chư Phật vui mừng.
9) Tam muội hiện tiền.
10) Vãng sanh về Tịnh Độ”.

Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Niệm Phật, Tinh Tấn, Thiền Định